Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng đối thoại trực tuyến với nhân dân
Trước khi trả lời, tôi xin chào quý vị khán thính giả, độc giả. Tôi cảm ơn Cổng TTĐT Chính phủ và các nhà báo đã có mặt tại đây.  

Hôm nay, 5/6, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng đã đối thoại trực tuyến với nhân dân tại Cổng Thông tin điện tử Chính phủ

Ảnh VGP

 

Cuộc đối thoại được truyền hình trực tuyến trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, được truyền hình trực tiếp trên kênh Invest Tv- VCTV 15- Truyền hình cáp Việt Nam và trên kênh VTC1- Đài truyền hình kỹ thuật số VTC. Đồng thời được thông tin rộng rãi trên nhiều phương tiện truyền thông khác để cung cấp thông tin tới các tầng lớp nhân dân trong nước, bà con Việt Kiều, các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Đây là hoạt động nhằm thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng về việc lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương tăng cường giao lưu trực tuyến, đối thoại trực tuyến với người dân, góp phần định hướng dư luận, tạo đồng thuận trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.

Bạn Đỗ Tùng Linh ở địa chỉ Linhdotung70@gmail.com hỏi: Thưa Bộ trưởng, trong những năm gần đây tình trạng cấp đất tràn lan cho các dự án đầu tư xây dựng tại các đô thị trong cả nước rất phổ biến, không theo quy hoạch dẫn đến phát triển đô thị thiếu đồng bộ… Cùng với đó là việc tổ kchức thực hiện quy hoạch tại các địa phương còn nhiều bất cập, điều chỉnh quy hoạch cục bộ nhiều lần… dẫn đến phá vỡ quy hoạch và không kiểm soát được quá trình phát triển đô thị. Xin Bộ trưởng cho biết ý kiến về vấn đề này?

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng: Trước khi trả lời, tôi xin chào quý vị khán thính giả, độc giả. Tôi cảm ơn Cổng TTĐT Chính phủ và các nhà báo đã có mặt tại đây.

Tôi xin trả lời câu hỏi như sau: Câu hỏi của bạn rất rộng, rất quan trọng. Trước hết, có thể nói qua về tình hình phát triển đô thị VN. Trong những năm qua, đặc biệt từ khi đổi mới, cùng với quá trình phát triển kinh tế, đô thị Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, số lượng đô thị được nâng lên, quy mô mở rộng, chất lượng nâng cao. Đô thị ngày càng khẳng định được vai trò động lực trong nền kinh tế. GDP của đô thị chiếm trên 70% GDP của cả nước, ngày càng khẳng định vai trò hạt nhân thúc đẩy cơ cấu kinh tế và xã hội của mỗi vùng, mỗi địa phương và trong cả nước. Nhưng bên cạnh đó, đúng là còn nhiều thách thức trong quá trình phát triển đô thị như bạn nói. Đô thị phát triển thiếu quy hoạch, tự phát, còn theo phong trào ở một số đô thị, tình trạng thiếu hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, tính kết nối hạ tầng còn yếu. Vấn đề ùn tắc giao thông, môi trường ô nhiễm, cảnh quan… ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Nguyên nhân của tình trạng này, trước hết là do hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư xây dựng, phát triển đô thị còn thiếu đồng bộ, phạm vi điều chỉnh chưa phủ kín, bỏ trống nhiều lĩnh vực, có chỗ chồng chéo, chế tài xử lý vi phạm chưa rõ.

Bên cạnh đó, quá trình quản lý NN về xây dựng còn bất cập so với yêu cầu phát triển. Có thể nói, công tác lập quy hoạch đã được các ngành, các địa phương rất quan tâm, đặc biệt là quy hoạch không gian, quy hoạch xây dựng đô thị.  760 đô thị trên cả nước đều có quy hoạch chung, nhưng quy hoạch chậm hơn so với yêu cầu đặt ra. Có những nơi đô thị phát triển rồi mới xong quy hoạch, quy hoạch phải cập nhật hiện trạng đã có.

Vấn đề thứ hai, còn nhiều quy hoạch có chất lượng thấp, thiếu nhiều quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết. Quy hoạch chung là cơ sở tổng thể, có tính định hướng cho sự phát triển của đô thị. Còn để phát triển bền vững phải có quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết. Nhưng thời gian qua, các đô thị chủ yếu phát triển trên cơ sở quy hoạch chung. Và cùng một lúc, dự án có quy hoạch chi tiết 1:2000, sau đó lại lập quy hoạch chi tiết 1:500. Thiếu một quy hoạch phân khu, nên các đô thị phát triển có tính chất chia cắt, riêng rẽ, vấn đề kết nối hạ tầng giữa các khu dự án là rất khó khăn.

Hơn nữa, hạ tầng xã hội của một khu vực phát triển chưa được quan tâm, trong một dự án đô thị chỉ có các hạ tầng của khu, thiếu hạ tầng của vùng, nên chất lượng đô thị bị ảnh hưởng.

Một vấn đề nữa, chúng ta phát triển đô thị nhưng thiếu quy hoạch chi tiết, đặc biệt thiếu thiết kế đô thị, điều lệ quản lý đô thị; công tác thiết kế đô thị còn lúng túng. Nhiều địa phương chưa quan tâm đúng mức đến lập các thiết kế đô thị để quản lý kiến trúc cảnh quan phù hợp với mục tiêu phát triển của mỗi đô thị.

Vấn đề điều chỉnh quy hoạch là cần thiết, do chất lượng quy hoạch thấp, nhưng nhiều khi điều chỉnh không vì yêu cầu khách quan mà do yêu cầu của nhà đầu tư, gây bức xúc của dư luận, ảnh hưởng phát triển bền vững.

Công tác quản lý thực hiện quy hoạch nhiều bất cập, thiếu sự kiểm soát thống nhất từ Trung ương, phân cấp quá nhiều cho địa phương. Do đó, các dự án phát riển đô thị tự phát, phong trào, việc tăng cường kiểm tra kiểm soát chưa được quan tâm, thiếu những cơ quan quản lý thống nhất, vai trò nhạc trưởng kết nối dự án còn thiếu…

Đó là những nguyên nhân khiến dô thị phát triển như hiện nay.

Cũng nói thêm, chúng ta phát triển đô thị theo quy hoạch, nhưng cũng chưa hoàn toàn thực hiện đúng theo quy hoạch. Mặt khác, chúng ta phát triển thiếu kế hoạch, cứ có đất là phát triển, không căn cứ vào việc tăng dân số tự nhiên và cơ học để có lộ trình phát triển phù hợp, đảm bảo tiết kiệm tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất đai và phù hợp nhu cầu, đảm bảo yêu cầu về nguồn lực.

Về giải pháp khắc phục, bạn Tùng Linh muốn hỏi trách nhiệm thuộc về ai?. Trách nhiệm này thuộc về những cơ quan quản lý Nhà nước về xây dựng nói chung, trong đó có Bộ Xây dựng.

Trước hết chúng ta hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan, đặc biệt là về quản lý phát triển đô thị. Bộ đang hoàn thiện dự thảo Nghị định về quản lý đầu tư phát triển đô thị thay cho Nghị định 02 về khu đô thị mới trước đây; hướng dẫn các Luật liên quan như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Bảo vệ tài nguyên môi trường… Đây là nghị định tổng hợp với mục tiêu lập lại trật tự quản lý đô thị, phát triển đô thị theo quy hoạch, kế hoạch; đảm bảo tiết kiệm nguồn lực, đặc biệt là đất đai; đảm bảo hạ tầng tốt cho đô thị; đảm bảo môi trường tốt để đô thị phát triển bền vững…

Một kiến trúc sư ở Hà Nội là Lê Việt Phương hỏi: Hiện nay công tác quy hoạch ở nhiều khu Đô thị còn bất hợp lý. Ví dụ như: Khu đô thị mới Linh Đàm – Hà Nội với quy mô trên 2 vạn dân nhưng không có quy hoạch đất cho trụ sở hành chính, y tế; hay như tại khu đô thị Mỹ Đình I - HN, có khu đất được quy hoạch là trường học nhưng đến nay chủ đầu tư vẫn chưa triển khai xây dựng. Xin Bộ trưởng cho biết ý kiến về vấn đề này ?

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng: Ý kiến của bạn, tôi thấy rất đúng. Chúng ta phát triển đô thị, thứ nhất chúng ta không căn cứ vào quy hoạch phân khu, nhiều đô thị  hiện nay quy hoạch phân khu chưa xong nhưng dự án đô thị đã hình thành Trên quy hoạch phân khu hiện nay của chúng ta gần như là hợp thức hóa lại những dự án đã có. Đối với những dự án đã thực hiện như dự án Linh Đàm, Mỹ Đình không nằm ngoài những vấn đề tôi vừa nói, đây là dự án độc lập, không trên cơ sở quy hoạch phân khu nên không có tính kết nối hạ tầng vùng, khu vực.

Về vấn đề ai làm, nếu rơi vào dự án Linh Đàm, Linh Đàm phải làm, những dự án hạ tầng này không chỉ phục vụ cho Linh Đàm, mà phục vụ cho nhiều khu vực. Cái này phải khắc phục như nào? Phát triển đô thị phải theo quy hoạch, kế hoạch. Quy hoạch phân khu là cơ sở xác định dự án trong đó. Sau đó, phải thành lập khu vực phát triển đô thị để kiểm soát phát triển.

Trong dự thảo Nghị định về quản lý đầu tư phát triển đô thị,  ban quản lý có thể quản lý 1 khu vực hoặc nhiều khu vực, tùy theo mức độ phức tạp. 1 địa phương, tỉnh có thể có 1 hoặc nhiều khu vực phát triển mà ban quản lý đóng vai trò là “nhạc trưởng” để điều phối hoạt động của các dự án đô thị trong khu vực phát triển.

 

Ảnh VGP

 

Bạn Hoàng Hữu Giang ở địa chỉ email hoanghuugiang79@gmail.com hỏi: Thất thoát lãng phí trong xây dựng, theo dư luận thì nhiều năm tới 10-20% thậm chí lớn hơn, theo Bộ trưởng có đúng không? Nếu thất thoát thì ở khâu nào là lớn nhất? Nghị định 16/CP ngày 05/02/2005 cuả Chính phủ trước kia quy định việc thẩm định thiết kế, dự toán vốn đầu tư ngân sách nhà nước do cơ quan quản lý nhà nước thẩm định, nay lại giao cho chủ đầu tư toàn quyền. Thưa Bộ trưởng, như vậy có tạo ra kẽ hở để thất thoát không ?

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng: Câu hỏi này rất hay và khó. Nhưng phải nói, thất thoát, lãng phí là vấn đề bức xúc, nhức nhối, được cả xã hội quan tâm. Đất nước ta còn nghèo, ta còn phải tiết kiệm rất nhiều để đầu tư phát triển để thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết vấn đề xã hội. Nguồn lực ít nhưng ta sử dụng không tiết kiệm, để xảy ra thất thoát, lãng phí là lỗi lớn.

Tỷ lệ 10 hay 20% thì hiện chưa có một nghiên cứu tổng thể nào để khẳng định. Thất thoát trong xây dựng là một khái niệm vừa rộng, vừa hẹp. Hiểu theo nghĩa hẹp, thất thoát chỉ là bớt xén vật liệu, nhân công… để chất lượng công trình giảm. Theo nghĩa rộng, thất thoát bao gồm cả lãng phí. Tóm lại, thất thoát, lãng phí trong xây dựng là thiệt hại do việc sử dụng kém hiệu quả hay do sử dụng những công trình không đạt được hiệu quả mà mục tiêu dự án đề ra, những thiệt hại làm công trình giảm chất lượng, do đó không tương xứng với giá trị, với chi phí vốn đầu tư…

Như vậy, có hai loại thất thoát, lãng phí: một là hữu hình (ăn cắp, bớt xén) chủ yếu là chủ động từ phía con người do mục đích vụ lợi cá nhân; hai là vô hình do bị động (do năng lực hạn chế của những người tham gia đầu tư xây dựng của tất cả các khâu). Chẳng hạn, chất lượng quy hoạch kém hoặc quy hoạch chậm, như một đô thị đã phát triển rồi mới tính chuyện mở rộng đường phố thì rất tốn kém… Thậm chí, với những công trình làm xong không sử dụng đến thì thất thoát, lãng phí bao nhiêu phần trăm? Đây là thất thoát, lãng phí bị động. Còn với những công trình thất thoát, lãng phí 1, 2… phần trăm thì phải có kiểm tra cụ thể.

Nhưng thất thoát, lãng phí rõ ràng là không nhỏ và phải có giải pháp. Trước hết, phải hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là với các công trình sử dụng nguồn vốn ngân sách… Bộ Xây dựng đang soạn thảo nghị định cấp phép xây dựng và quản lý chất lượng công trình xây dựng, trong đó yêu cầu các ơ quan quản lý Nhà nước phải tham gia thẩm định thiết kế và dự toán, thậm chí thẩm định cả dự án, chứ không giao toàn quyền cho chủ đầu tư. Hiện một số chủ đầu tư năng lực kém phải thuê tư vấn, dễ dẫn đến thông đồng giữa các bên để tiêu cực…

Thứ hai, cần tăng cường kiểm tra, giám sát, tăng cường trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá trình đầu tư xây dựng…

Bạn Nguyễn Bá Chương ở địa chỉ email supersusumo@gmail.com hỏi: Hiện nay tôi thấy tình trạng mạng nhện trên các tuyến đường trong các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang diễn ra phổ biến gây mất mỹ quan đô thị và đôi khi gây mất nguy hiểm cho người dân đặc biệt trong mùa mưa bão. Đề nghị Bộ trưởng cho biết sắp tới tình trạng này có được giải quyết không? 

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng: Hiện nay tình trạng mạng nhện tức là hệ thống đường dây điện, dây thông tin, cáp… thay vì chúng ta cất trong đường ống hoặc sắp xếp có trật tự, thì hiện còn lộn xộn, tự phát. Ở nhiều đô thị đặc biệt là đô thị cũ. Đúng như bạn Chương nói, nó gây mất mỹ quan, ảnh hưởng tới an toàn, khi mưa gió bão có thể đứt, gây giật, tai nạn chết người…

Hiện nay, trên thế giới cũng có tình trạng này ở những nước phát triển, nhưng khác ở chỗ hệ thống đường dây, cáp của họ được sắp xếp có trật tự, ý đồ, quy hoạch, nhiều đô thị cũ để “mạng nhện” còn tôn thêm giá trị văn hóa, vật thể của quá khứ, tăng thêm giá trị của đô thị.

Để khắc phục, tại Hà Nội, TP.HCM, thời gian qua chính quyền hai thành phố đã tập trung làm được nhiều việc, như sắp xếp lại đường dây trên các cột điện, thí điểm hạ ngầm đường dây, cáp. Nên nhiều tuyến phố lớn đã không còn tình trạng đó. Đây là vấn đề cần tiếp tục. Để khắc phục, Bộ Xây dựng đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý không gian xây dựng ngầm đô thị, soạn thảo Nghị định trình Chính phủ về quản lý và sử dụng chung cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trong đó yêu cầu cơ quan quy hoạch xác định tuyến hào, tuynen ngầm, trong đó đặt xác định các vị trí để lắp đặt đường dây, đường ống.

BTV: Bạn đọc hỏi khi nào có thể chấm dứt tình trạng trên?

Bộ trưởng Trình Đình Dũng: Câu hỏi này rất hay và khó. Hạ ngầm không phải chỉ là vấn đề kinh phí.

Vấn đề làm thế nào để vừa hạ ngầm, vừa đảm bảo sinh hoạt bình thường của người dân, cho nên cần có lộ trình, thời gian để thực hiện. Việc này thuộc trách nhiệm của các địa phương đặc biệt là các thành phố lớn.

Bạn Nguyễn Mai Anh ở Đại học Quốc gia Hà Nội hỏi: Vừa qua nhiều địa phương thuộc khu vực nông thôn có quyết định trở thành đô thị trong khi các hình thức sản xuất, phong tục tập quán và lối sống của người dân ở đây vẫn duy trì theo kiểu nhà nông. Vì vậy để phát triển các khu vực này thành đô thị hiện đại là rất khó, trong khi đó những nét đẹp văn hóa mang bản sắc lâu đời của các làng quê trước đây thì đã mất đi. Bộ trưởng suy nghĩ về vấn đề này như thế nào, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng: Đây là vấn đề rất được quan tâm. Quá trình đô thị hóa là tất yếu của bất kỳ quốc gia nào, mà trình độ phát triển mỗi quốc gia đều thể hiện qua đô thị hóa.

Ở Việt Nam, do tăng trưởng kinh tế nên quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh, và điều quan trọng là phải ứng xử như thế nào với quá trình đó. Hoặc là chúng ta bị động, để nó phát triển tự phát với những thách thức; hoặc chúng ta chủ động đón nhận đô thị hóa để tạo động lực cho nó phát triển, cũng là mục tiêu của quá trình phát triển. Tôi nghĩ chúng ta phải đi theo hướng thứ hai, tức là chủ động đón nhận quá trình đô thị hóa.

Muốn vậy, trước hết phải tập trung vào công tác quy hoạch, quy hoạch đô thị có tầm nhìn dài hạn và lộ trình thực hiện, và quy hoạch này phải có sự tham gia đông đảo của người dân, phục vụ lợi ích Nhà nước, xã hội và người dân. Nhà nước chuẩn bị sẵn tư tưởng cho người dân, chuẩn bị kế hoạch sử dụng đất, chuyển đổi mục tiêu sử dụng đất, đào tạo nghề cho người dân vùng đó. Trong quy hoạch, cũng cần giữ gìn những giá trị văn hóa đặc sắc của mỗi vùng miền, nhất là các làng cổ… để có thể trở thành những điểm du lịch hấp dẫn, cũng là khoảng đệm tạo sự thông thoáng của đô thị… Nhà nước cũng chủ động đào tạo nghề cho người dân nông thông để chuyển dịch cơ cấu lao động. Quy hoạch và phát triển đô thị phải gắn với giữ gìn giá trị văn hóa của mỗi vùng, mỗi địa phương, đặc biệt bảo tồn di sản văn hóa, các di tích lịch sử, các giá trị văn hóa phi vật thể…

 

Ảnh VGP/Nhật Bắc

Bạn Nguyễn Hữu Vinh ở Hà Nội hỏiTại đường Hồ Tùng Mậu – Hà Nội, tôi vô cùng ngạc nhiên khi một tuyến đường dù được GPMB chưa lâu nhưng đã có hàng chục ngôi nhà 3, 4 tầng siêu mỏng, siêu méo mọc lên ngay mặt đường. Nhà nước đã chi hàng trăm, thậm chí hàng nghìn tỷ đồng để giải phóng mặt bằng, mở rộng một tuyến đường mới nhưng kết quả lại được một tuyến phố lộn xộn, nhếch nhác như vậy sao, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng: Vấn đề này ngay bản thân tôi cũng bức xúc, không chỉ riêng đường Hồ Tùng Mậu mới có hiện trạng này mà còn nhiều con đường khác. Trong những năm qua, đường phố của chúng ta cơ bản đã tạo ra diện mạo mới, nhưng không ít đường phố, tuyến phố mới xây dựng hoặc xây dựng cải tạo chúng ta chưa bằng lòng với kiến trúc cảnh quan.

Tôi chưa xét đến vấn đề xây dựng có đúng pháp luật hay không. Có thể đúng, nhưng tổng thể mặt phố không tôn trọng quy định pháp luật. Luật quy định rất rõ phải có thiết kế đô thị (khoảng lùi công trình, hình thức kiến trúc tổng thể, màu sắc, vật liệu chủ đạo, chiều cao…)- không phải vấn đề lớn, nhưng không ít địa phương còn thiếu quan tâm. Cho nên dẫn đến cấp phép xây dựng cho những mảnh đất riêng lẻ thiếu kết nối, nhỏ, không đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Vấn đề này cần phải khắc phục. Trong Nghị định cấp phép Bộ Xây dựng đã trình Chính phủ sắp tới đề cập đến vấn đề này, phải yêu cầu bất kỳ một công trình cải tạo hay sửa chữa hay xây dựng mới ở đô thị đều phải có điều kiện là thiết kế đô thị của tuyến đường đó, nếu không có thì không cấp phép…

Nếu người dân phàn nàn thì trách nhiệm đó thuộc về cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng nhà ở tại địa phương đó. Chúng ta phải kiên quyết trong vấn đề này. Chúng ta phải vì cái chung, cộng đồng và vì một đô thị xanh- sạch- đẹp.

Các độc giả Nguyễn Thủy Lê– Hà Nội; Phạm Thị Hương (đang công tác tại doanh nghiệp xây lắp) đặt câu hỏi về vấn đề điều chỉnh hợp đồng: Trong thời gian qua, nhất là năm 2011, tình hình giá cả nguyên vật liệu xây dựng biến động bất thường, các dự án xây dựng thiếu vốn và bị đình trệ, nhất là với những hợp đồng theo hình thức trọn gói, khi xảy ra những biến động về giá cả và chính sách làm ảnh hưởng đến giá hợp đồng, làm vượt tổng mức đầu tư. Theo quy định hiện hành sẽ không được điều chỉnh hợp đồng, giá hợp đồng. Vậy xin Bộ trưởng cho biết với những dự án bị đình trệ trong thời gian qua và những vướng mắc của các chủ đầu tư trong việc thực hiện hợp đồng, dự án như vậy, Nhà nước đã có giải pháp nào để giải quyết tình hình trong thời gian tới ? 

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng: Đây là vấn đề Bộ Xây dựng đang phải giải quyết. Chúng ta biết, mỗi năm tổng mức đầu tư xã hội xấp xỉ gần 40% GDP, năm 2011 lên tới 800 ngàn tỷ đồng. Trong đó, có khoảng 20% là từ ngân sách nhà nước, trái phiếu, khoảng trên 200 ngàn tỷ đồng. Vốn đầu tư này tạo ra những tài sản cố định cho nền kinh tế, tạo ra những con đường, cây cầu, những công trình hạ tầng xã hội cho phát triển kinh tế. Nếu công trình xây dựng đúng kế hoạch, tiến độ sẽ đem lại hiệu quả cao, ngược lại sẽ tạo thất thoát, lãng phí… 

Hiện chúng ta đang đối mặt với lạm phát, nên giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, chi phí nhân công cũng tăng, nên tổng vốn đầu tư thay đổi. Hiện hơn 40 địa phương đã đề nghị thay đổi tổng mức đầu tư các dự án, nhưng chúng ta không thể có tiền thêm mà bổ sung…

Hiện, Bộ đã báo cáo và được Thủ tướng đồng ý cho phép Bộ Xây dựng hướng dẫn điều chỉnh tổng mức đầu tư xây dựng công trình. Nguyên tắc là với những dự án phê duyệt trước khi có Nghị định 83 hướng dẫn thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản, thì do người quyết định đầu tư xem xét, quyết định.  

Với những dự án phê duyệt từ khi Nghị định 83 có hiệu lực, yêu cầu chủ đầu tư phải điều chỉnh, thay đổi những vật liệu xây dựng đắt tiền bằng những vật liệu giá thấp hơn nhưng vẫn đảm bảo chất lượng, hoặc thay đổi thiết bị nhập ngoại bằng trong nước…, hoặc cắt giảm những phần công việc không ảnh hưởng mục tiêu dự án… Trong trường hợp nếu những biện pháp đó vẫn không giải quyết được, thì với các dự án sử dụng 30% vốn Nhà nước trở lên, các Bộ, ngành, địa phương, các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước phải có báo cáo trước tháng 30/6, để Bộ tập hợp, báo cáo, xin ý kiến Chính phủ. 

Với những hợp đồng trọn gói, thì khi chi phí đầu vào tăng quá cao, nên không thể thực hiện được. Chúng ta không cần làm giá rẻ, nhưng giá phải phù hợp với chất lượng. Do đó, Bộ Xây dựng sẽ nghiên cứu giải pháp và báo cáo Chính phủ xem xét, giải quyết.  

Ông Trần Đức Tính ở thành phố Đà Nẵng hỏi: Tình trạng các nhà thầu xây dựng sử dụng lao động không qua đào tạo (chủ yếu là tuyển thanh niên nông thôn đến làm việc trong lúc nông nhàn) đã tồn tại từ rất lâu và hậu quả không chỉ là làm giảm chất lượng công trình mà còn làm cho số vụ tai nạn lao động trong ngành xây dựng ngày càng gia tăng. Tình trạng này đang diễn ra rất phổ biến và công khai. Phải chăng Bộ Xây dựng đã làm ngơ cho các nhà thầu để rồi hậu quả thì Nhà nước và người dân phải gánh chịu?

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng: Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp xây dựng như ông nói sử dụng lao động nông nhàn để tham gia một số công việc hay một bộ phận công việc của những dự án thi công xây lắp. Đúng như ông nói, một mặt tích cực là chúng ta giải quyết lao động, việc làm cho lao động nông nhàn để họ tăng thu nhập, giải quyết đời sống. Nhưng hạn chế là nếu để những lao động nông nhàn làm những việc họ không biết thì ảnh hưởng tới chất lượng và tiến độ.

Nguyên nhân của tình trạng này, hiện nay, tình trạng dư thừa lao động ở nông thôn là rất lớn. Và chúng ta đang tập trung để phát triển kinh tế, trong đó có nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp, nông thôn sang công nghiệp, dịch vụ. Do diện tích đất canh tác trên một đầu người còn rất thấp, nếu tập trung quá nhiều lao động ở khu vực nông nghiệp thì đời sống người dân rất khó khăn. Nên đây là nhiệm vụ chính trị cần được quan tâm.

Vấn đề thứ hai, các doanh nghiệp xây dựng hiện nay đối mặt với thách thức rất lớn, khối lượng đầu tư xây dựng rất lớn trong khi năng lực xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng còn nhiều hạn chế, thiếu lao động có kỹ thuật, kỹ năng…

Nguyên nhân thứ ba, do kinh tế thị trường, để tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp, thì các doanh nghiệp có xu hướng xây dựng bộ khung cứng, và đặc biệt đối với doanh nghiệp xây lắp điều kiện làm việc không ổn định, lúc thì xây dựng ở đồng bằng đô thị, lúc thì ở miền núi, nên không thể duy trì bộ máy, nhân lực đầy đủ, đặc biệt là người lao động như các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp cho nên dẫn tới tình trạng như vậy.

Để khắc phục, trước hết phải chủ động trong kiểm soát năng lực các doanh nghiệp xây lắp. Chúng tôi đang xây dựng chính sách để tăng cường minh bạch năng lực của doanh nghiệp xây lắp trong đó có vấn đề chất lượng xây dựng, uy tín doanh nghiệp, nguồn nhân lực có đào tạo…

Bên cạnh đó, cần tăng cường đào tạo. Hiện nay đang có xu hướng đào tạo thầy nhiều hơn thợ. Ngay trong ngành xây dựng nhiều nơi thiếu học sinh vào học, đây là vấn đề nhức nhối mà chúng ta phải tập trung để suy nghĩ, từ đào tạo tập trung, không tập trung, đào tạo ngắn hạn, dài hạn, đào tạo tại trường học, tại công trường. Doanh nghiệp phải có trách nhiệm đào tạo lao động nông nhàn để họ hiểu công việc, trước hết đảm bảo an toàn lao động, sau đó là biết việc, làm việc có năng suất, hiệu quả, vừa phục vụ cho đời sống của họ, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp có hiệu quả.

 

Ảnh VGP/Nhật Bắc

Độc giả  Lê Bình ở địa chỉ nguoigopyvietnam@yahoo.com.vn]; Đức Anh ở địa chỉ le_duc_anh_91@yahoo.com hỏi: Có ý kiến cho rằng, xi măng “khủng hoảng” do quy hoạch. Xin Bộ trưởng cho biết tại sao Việt Nam đã thừa xi măng, phải xuất khẩu lại vẫn cho nhập khẩu xi măng? Xin Bộ trưởng cho ý kiến về nhận định này?

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng: Tôi xin nói rằng chúng ta đã có quy hoạch xi măng giai đoạn 2005-2010 được ban hành theo Quyết định 108 và quy hoạch giai đoạn 2011-2020 và định hướng tới năm 2030 theo Quyết định 1488 của Thủ tướng Chính phủ.

Các quy hoạch này đã dự báo đúng và phục vụ tốt cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của nước ta qua các giai đoạn. Năm 2011, cả nước tiêu thụ được 55 triệu tấn sản phẩm xi măng trên công suất thiết kế hiện có năm 2011 là 64 triệu tấn. Như vậy, lượng tiêu thụ đã đạt 86% công suất thiết kế hiện có.

Tôi xin khẳng định không có khủng hoảng về xi măng do quy hoạch như một số ý kiến đã nói ở trên.

Hiện nay, tiêu thụ xi măng đang giảm so với thời gian trước, tồn kho cũng nhiều hơn trước. Đây là hiện tượng bất bình thường trong thời gian tạm thời.

Nguyên nhân là do chúng ta đang thực hiện Nghị quyết 11 để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó có nội dung cắt giảm đầu tư công… Do vậy, khối lượng xây dựng bị sụt giảm, dẫn đến việc giảm nhu cầu sử dụng các loại vật liệu xây dựng, trong đó có xi măng.

Khó khăn đó là ngắn hạn chứ không phải dài hạn, trung hạn. Trong năm nay, dự kiến khối lượng tiêu thụ vẫn tương đương năm 2011. Trên cơ sở sản xuất và tiêu thụ thực tế 5 tháng đầu năm 2012, chúng ta có thể khẳng định năm 2012 lượng tiêu thụ cũng vào khoảng 55-56 triệu tấn sản phẩm xi măng. Với lượng tiêu thụ như vậy thì công suất thiết kế hiện có cũng được khai thác trên 80%. Ngành xi măng hiện nay cũng đang gặp nhiều khó khăn nhưng đây là khó khăn chung của cả nền kinh tế. Chúng ta không thể nói khủng hoảng xi măng là do quy hoạch.

Về vấn đề bạn hỏi tại sao Việt Nam đã thừa xi măng, phải xuất khẩu lại vẫn cho nhập khẩu xi măng, tôi xin trả lời như sau:

Thứ nhất, chúng ta đã tham gia Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) mà cam kết của các thành viên AFTA là từ năm 2006 không được cấm nhập cũng như áp dụng hàng rào thuế quan đối với sản phẩm xi măng. Chúng ta phải thực hiện nghiêm túc cam kết này.

Thứ hai, sản xuất xi măng do phân bổ nguyên liệu cho nên chủ yếu ở phía Bắc. Hàng năm, chúng ta phải vận chuyển vào phía Nam trên chục triệu tấn sản phẩm xi măng làm cho giá thành tại khu vực phía nam cũng cao, nhiều khi còn cao hơn nhập khẩu clanke từ Thái Lan.

Trong nền kinh tế thị trường, nếu sử dụng trong nước hiệu quả thấp, thì phải nhập với giá cạnh tranh hơn từ bên ngoài.

Trước đây chúng ta sản xuất chưa đủ xi măng, hàng năm phải nhập từ 3,5-5 triệu tấn clanke để đảm bảo nhu cầu xi măng trong nước. Nhưng từ năm 2010, chúng ta đã có đủ nguồn cung. Từ năm 2011, cũng chỉ còn 1 công ty nhập khẩu clanke. Đó là một  công ty nước ngoài (Công ty xi măng Holcin), công ty này nhập clanke từ công ty mẹ ở Thái Lan.

Do chúng ta có quy hoạch đúng, nên từ chỗ phải nhập khẩu lớn đến năm 2010 chỉ nhập khẩu khoảng 1 triệu tấn. Con số này giảm dần và 5 tháng đầu năm 2012 chúng ta chỉ nhập có 370.000 tấn.

Bạn Minh Minhnguyen [minhfpl@yahoo.com.vn] ; Hai Nguyen duc [hai_nmh123@yahoo.com.vn hỏi: Thưa Bộ trưởng, năm 2011, Bộ Xây dựng đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 vào ngày 30/11/2011, với tư cách là Bộ quản lý nhà nước về lĩnh vực này, xin bộ trưởng phân tích thêm về quan điểm chủ đạo, cách tiếp cận Chiến lược và cách thức đáp đáp ứng nhu cầu cho các đối tượng không có khả năng chi trả theo cơ chế thị trường. Xin cảm ơn Bộ trưởng.

 

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng : Đây là câu hỏi có ý nghĩa lớn không chỉ về kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội, văn hóa, nhân văn. Chúng ta đều biết, nhà ở là điều kiện tối thiểu của con người. Cùng với giáo dục- y tế, nhà ở là điều kiện để đảm bảo cho con người phát triển toàn di  


Các tin khác